TÀI ỨNG ĐỐI CỦA NGUYỄN HÒE
LẠI TÂY DƯƠNG
Nguyễn Hòe là một danh sĩ đời Lê, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng hiểu nhiều, biết rộng, đến kỳ thi ông cùng các môn sinh và bằng hữu hối hả lên đường vào kinh ứng thí. Éo le thay, quan chủ khảo kì thi ấy cũng tên là Hòe, theo tục kiêng “húy” thì người có thứ bậc thấp, danh vị nhỏ, tuổi ít hơn phải đọc chệch tên để đảm bảo sự tôn trọng bề trên. Vì lẽ ấy người xướng danh đã đọc Nguyễn Hòe thành Nguyễn Huề, biết vậy Nguyễn Hòe nhất quyết không vào trường thi. Khi các sĩ tử đã an tọa, quan chủ khảo thấy một thí sinh đeo ống quyển vẫn xăng xái chờ đợi bên ngoài bèn hỏi: - Còn ai chưa có tên? Nguyễn Hòe thưa: - Trình quan, còn con chưa có tên Quan chủ khảo hỏi người gọi tên về trường hợp này, người này thưa: - Thưa quan, con đã gọi nhưng người này không vào. Sau khi tra xét căn nguyên, quan biết đây là một học trò vô cùng cứng đầu, bướng bỉnh, liền phán: - Anh không muốn vào trường thi một cách thường tình thì ta sẽ cho anh vào trường theo kiểu của ta, ta sẽ ra một vế đối nếu anh đối được hoàn chỉnh thì sẽ được vào thi, bằng không ta sẽ cấm cửa. Nguyễn Hòe vâng lời, quan chủ khảo đọc câu đối: “Lạn Thương - như, Tư - Mã Tương - Như, danh Tương - Như, thực bất Tương - Như”. Đây là một vế đối vô cùng hóc hiểm, quan chủ khảo đã dẫn ra nhân vật Lạn Tương - như thời xuân thu chiến quốc, nổi tiếng là bậc tài năng, khi nghèo khó phải đến nương nhờ quan nội thị Mục Hiền nước Triệu, nhờ trí thông minh, tài ứng xử, lòng can đảm đã giúp vua Triệu là Huệ Văn Vương bảo vệ ngọc quốc bảo Hòa Thị và không chịu nhục trước hội thề với Tần Chiêu Vương nên được phong đến chức tể tướng. Còn Tư Mã Tương - như chỉ là một viên quan nhỏ thời Hán Vũ Đế, người này đẹp trai, phong lưu có tài âm nhạc đã sáng chế ra khúc “Phượng cầu hoàng” nổi tiếng để người đẹp Trác Văn Quân cảm động bỏ nhà đi theo. Vế đối này ý quan ngầm nói: Lạn Tương - như và Tư - Mã Tương - như hai người cùng có tên là Tương - như nhưng danh phận khác nhau, một người làm tể tướng, một người chỉ làm chức quan nhỏ cũng như ta và anh cùng tên là Hòe, nhưng ta làm quan còn anh chỉ là diện thư sinh so sánh với nhau thế nào được. Nguyễn Hòe thưa: - Con xin đối lại như sau: “Ngụy Vô - kỵ, Trưởng - Tôn Vô - Kỵ, bỉ Vô - Kỵ, Ngã diệc Vô - kỵ”. Ngụ ý: Công tử Vô - kỵ đời Ngụy Chiêu Vương là một vương tôn, Trưởng - tôn Vô Kỵ đời nhà Đường cũng là một vương tôn, hai Vô - Kỵ này đều nổi tiếng là bậc hiền thần tài giỏi, nhưng Vô - Kỵ cũng có nghĩa là không kỵ, không kiêng, con đã biết lỗi nhưng nếu quan cố chấp thì con sẽ không kỵ, không kiêng quan nữa. Thấy vế đối rất chỉnh cả về ý tứ, thủ pháp, niêm luật, quan chủ khảo tấm tắc ngợi khen nhưng vẫn yêu cầu Nguyễn Hòe phải đối thêm câu nữa; “Xỉ tính cương, Thiệt tính nhu, Cương tính bất như nhu tính cửu”. Dịch nghĩa: Xỉ là răng, Thiệt là lưỡi, răng rắn, lưỡi mềm nhưng bao giờ răng cũng rụng trước lưỡi, ngụ ý anh thông minh nhưng cứng rắn quá đừng học cái răng mà nên là cái lưỡi thì sẽ hiển đạt và thành công. Nguyễn Hòe xin đối lại: “Mi sinh tiền, Tu sinh hậu, Tiên sinh bất nhược, hậu sinh trường” Dịch nghĩa: Lông mi mọc trước, râu mọc sau nhưng bao giờ râu mọc sau cũng dài hơn lông mi mọc trước. Quan chủ khảo chịu là tài và kỳ thi ấy Nguyễn Hòe được chọn đỗ đầu.
LẠI TÂY DƯƠNG