Trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, năm 1975 là một mốc son chói lọi. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã toàn thắng khi lá cờ giải phóng tung bay phấp phới trên nóc dinh Độc Lập ở Sài Gòn vào trưa ngày 30 - 4 năm ấy
Trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, năm 1975 là một mốc son chói lọi. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã toàn thắng khi lá cờ giải phóng tung bay phấp phới trên nóc dinh Độc Lập ở Sài Gòn vào trưa ngày 30 - 4 năm ấy. Ai đã từng trải qua những ngày lịch sử đó, giờ nhớ lại vẫn không khỏi bồi hồi xúc động…
Làm sao quên được tấm bản đồ Việt Nam đỏ thắm những mũi tiến công vũ bão và các vùng đất giải phóng thay đổi từng ngày, từng giờ. Ngỡ như còn nghe tin thắng trận dồn dập từ miền nam bay về. Vẫn còn đó niềm vui vỡ òa, nụ cười rạng rỡ và giọt nước mắt long lanh trên gương mặt bao người.
Vẫn còn đây những vần thơ dạt dào âm hưởng toàn thắng cuốn theo bước chân anh giải phóng quân, hòa trong nắng gió phương nam. Những bài thơ cuồn cuộn hào khí “thần tốc”, rạo rực niềm vui chiến thắng còn để lại cho con cháu hôm nay những hình dung hoành tráng về mùa xuân đại thắng 1975.
"Bỗng nghe vần Thắng vút lên cao". Bác Hồ viết câu đó trước ngày miền nam hoàn toàn giải phóng mấy năm, nhưng dẫu khi Người đã lên đường nhẹ bước tiên, thì vần thơ ấy vẫn là lời báo tiệp vọng vang trên khắp mọi miền đất nước và bốn biển năm châu. Niềm tin chiến thắng từ Chủ tịch Hồ Chí Minh lan tỏa, thấm sâu vào nhân dân như một sức mạnh to lớn, không đạn bom tàn bạo nào có thể đè bẹp được: Năm qua thắng lợi vẻ vang/ Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/ Vì độc lập, vì tự do/ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/ Tiến lên! Chiến sỹ đồng bào/ Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn (Thơ chúc Tết 1969 - Hồ Chí Minh).
Với niềm tin son sắt ấy, trong chiến dịch cuối cùng, quân và dân ta đã làm nên một cơn lốc hùng vĩ. Khí thế ào ạt đó tràn vào thơ Phạm Tiến Duật: Khi lên xe ta chưa quen nhau/ Lúc xuống xe ta đã thành bè bạn/ Ta tựa lưng vào bốn năm tấn đạn/ Chúng ta đi đường dài/ Mấy trăm xe và mấy trăm người/ Nhằm mặt trận tiến vào như cơn lốc/ Những trái tim xếp theo hàng dọc/ Suốt đường dài hồi hộp biết bao nhiêu. (Chim Lạc bay). Và còn nữa trên dãy Trường Sơn trùng điệp, những người con trai, con gái đẹp như hoa hồng cứng hơn sắt thép ( trong thơ Nam Hà) đã hẹn gặp nhau trong ngày vui đất nước: Đoàn quân vẫn đi vội vã/ Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa/ Chào em em gái tiền phương/ Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn. (Lá đỏ - Nguyễn Đình Thi). Một vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa lãng mạn mà sau này đã được âm nhạc chắp cánh bay lên, thành ca khúc kháng chiến trữ tình được nhiều người yêu thích.
Vốn là một người lính thiết giáp, nhà thơ Hữu Thỉnh tài hoa, nhạy cảm đã dựng thành công chân dung người chiến sĩ trong chiến dịch mang tên Bác với một chiều sâu tâm hồn rất trung thực và cảm động. Trường ca "Đường tới thành phố" của ông là bài ca đẹp về người lính. Trước ngày 30 - 4 lịch sử là những cuộc chuyển quân rậm rịch, là một đêm đợi chờ hồi hộp: Anh đang ở bên này thành phố/ Cách một mệnh lệnh/ Cách một trận đánh/ Cách một cây cầu/ Cách một đêm nay…/Thành phố càng gần/ Càng không dám nghĩ nhiều đến mẹ/ Phải cố quên mẹ ngồi đứng không yên/ Dù chỉ có anh và ngọn cỏ lúc này. Bao nhiêu người lính như thế đã không được trở về với mẹ, họ chấp nhận hy sinh để cho Sài Gòn òa vỡ trong niềm vui giải phóng: Năm cánh quân từ năm hướng trở về/ Thành phố đầy áo trận/ Ở cuối đường một vành lá vút qua/ Chỉ chờ thế là người xô như sóng… Và trong cái nhìn cận cảnh, hình ảnh anh bộ đội phong trần trận mạc xiết bao: Đồng chí trưởng xe mình quấn đầy băng trắng / Anh giơ tay cả thành phố động lòng/ Xạ thủ trung liên/ Quần áo màu rừng ngả sang màu đất/ Đôi dép râu dẫn trước đội hình/ Hoa nhiều quá nhưng anh không kịp nhận… Hình ảnh anh bộ đội trong ngày Sài Gòn giải phóng được khắc họa khá nhiều trong thơ ca thời ấy. Nguyễn Thành Vân trong bài thơ “Ngôi sao trên đầu, khẩu súng trên vai” đã rưng rưng ghi lại: Tôi bị vây tròn vòng ngoài vòng trong/ Tôi bị hỏi dồn, phía sau phía trước/ Cô bác nhìn tôi từ đầu đến chân /Tôi phải trả lời bằng tay bằng mắt.
Một Sài Gòn giải phóng, hòa bình trở về với Tổ quốc thân yêu. Ước mơ Việt Nam thống nhất đã trở thành hiện thực với mùa xuân đại thắng 1975. Mỗi trái tim người dân Việt Nam không khỏi ngân rung niềm hạnh phúc trước những vần thơ ngập tràn hân hoan của nhà thơ Tố Hữu: Ôi, buổi trưa nay, tuyệt trần nắng đẹp/ Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta/ Chúng con đến, xanh ngời ánh thép/ Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa (Toàn thắng về ta). Ngày 30 - 4 và Sài Gòn giải phóng đã trở thành bản giao hưởng chiến thắng sau những tháng năm chiến đấu bất khuất kiên cường với bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và máu xương của dân tộc. Cái giá của độc lập tự do, hòa bình thống nhất đất nước vô cùng to lớn. Có lẽ vì thế, khi được thưởng thức một đêm nhạc giao hưởng giữa Sài Gòn, nhà thơ Anh Ngọc đã xao xuyến với những liên tưởng rất đẹp: Cát bụi đường xa khẩu súng ngọn cờ/ Ngửa bàn tay gặp bàn tay nhạc trưởng/ Mở tấm lòng gặp tấm lòng giao hưởng/ Bổng trầm cung bậc tìm nhau/ Sài Gòn trong ta là trái chín vẹn nguyên/ Chiến thắng đặt vào lòng hai đứa/ Một nửa anh và em một nửa… (Sài Gòn đêm giao hưởng).
Khẩu súng ngọn cờ trở thành biểu tượng giàu ý nghĩa cho một giai đoạn lịch sử đáng nhớ của dân tộc. Những bông sen đã mọc lên từ mảnh đất “Việt Nam máu và hoa” (Tố Hữu), trở thành thông điệp giao hòa thân thiện của con người. Sự tốt đẹp ấy đã được bắt đầu, được tính từ ngày 30 - 4 lịch sử mà âm hưởng hào hùng của nó còn vang vọng trong những câu thơ sinh ra cùng cái thời không thể nào quên ấy. Những câu thơ mang vần Thắng vút lên cao!
Nguyễn Hữu Quý