Cách đây 300 năm lẻ, bảng vàng, bia đá đã lưu danh Bùi Sĩ Tiêm, quê làng Kinh Lũ (nay thuộc xã Đông Kinh, huyện Đông Hưng) đỗ đầu khoa thi Ất Mùi (1715) với học vị Đình nguyên Hoàng giáp (thủ khoa). Dân gian đương thời vẫn tôn kính gọi là ông nghè Kinh Lũ. Sử sách lưu tên ông không chỉ là người học rộng, đỗ cao mà còn vì khí tiết của ông với việc dâng “khải thập điều” lên triều đình để điều trần về thực trạng đất nước và kiến giải những điều cần cải cách xã hội. Trải đã hơn ba thế kỷ, những vấn đề mà ông nghè Kinh Lũ đặt ra trong “khải thập điều” đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Cách đây 300 năm lẻ, bảng vàng, bia đá đã lưu danh Bùi Sĩ Tiêm, quê làng Kinh Lũ (nay thuộc xã Đông Kinh, huyện Đông Hưng) đỗ đầu khoa thi Ất Mùi (1715) với học vị Đình nguyên Hoàng giáp (thủ khoa). Dân gian đương thời vẫn tôn kính gọi là ông nghè Kinh Lũ. Sử sách lưu tên ông không chỉ là người học rộng, đỗ cao mà còn vì khí tiết của ông với việc dâng “khải thập điều” lên triều đình để điều trần về thực trạng đất nước và kiến giải những điều cần cải cách xã hội. Trải đã hơn ba thế kỷ, những vấn đề mà ông nghè Kinh Lũ đặt ra trong “khải thập điều” đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Từ đường và lăng mộ Đình nguyên Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm ở làng Kinh Lũ, xã Đông Kinh, huyện Đông Hưng. Ảnh: Lê Quang
Ngay sau khi thi đỗ, Bùi Sĩ Tiêm được bổ chức Hiệu lý làm quan trong triều. Vì tin cậy tài năng, đức hạnh và khẩu khí văn chương của ông, triều đình giao cho Bùi Sĩ Tiêm soạn các bài văn bia tiến sĩ để dựng bia tại Quốc Tử Giám. Hiện tại, Văn Miếu - Quốc Tử Giám ở Hà Nội còn lưu giữ 82 bia tiến sĩ thì có tới 5 bia do Bùi Sĩ Tiêm soạn. Đây là một trường hợp độc đáo, một vinh hạnh hiếm thấy đối với một vị tân khoa. Bởi lệ xưa, người được giao trọng trách soạn bia tiến sĩ thường phải là người có danh vọng, uy tín lớn trong giới học quan.
Nay đọc lại những bài văn bia trong nhà bia tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, ta thấy cốt cách văn chương trong các bài văn bia do Bùi Sĩ Tiêm soạn có những nét khác thường. Với bài văn bia khoa ông thi đỗ thì tư duy trong phương châm hành đạo của Bùi Sĩ Tiêm đã bộc lộ khá rõ ràng. Ông đã thẳng thắn cảnh báo các tiến sĩ đồng khoa với mình:
“Các người phải nghiêm khắc đối với mình, phải giữ vững đức thanh liêm và phẩm chất trắng trong. Làm quan trong triều phải chính trực, trung hậu, đem đạo đức, nhân nghĩa để phò vua. Khiến cho tiếng thơm thêm lừng lẫy, sự nghiệp thêm chói chang, người đời sau chỉ tên trong bia mà ca ngợi. Nếu lòng thay dạ đổi, lời nói và việc làm không thống nhất với nhau, chỉ nghĩ đến chức tước, tiền của, mưu tính về quyền lợi còn mất, thiệt hơn, bề ngoài thì khuôn phép, mực thước, bên trong thì quanh co, khuất tất, việc làm trái với điều đã học và xa rời đạo lý, bôi nhọ danh tiết, bêu xấu sĩ phong thì mọi người cũng sẽ chỉ vào tên trong bia mà chê trách. Dư luận nghiêm minh, nghìn năm rõ rệt, có đáng sợ không?”.
Sau hơn hai năm giữ chức Hiệu lý trong triều, Bùi Sĩ Tiêm được thăng chức bổ ra làm quan ở Sơn Tây vào năm 1718, hai năm sau (1720) được vời về triều phong chức Đông Các hiệu thư. Năm 1727 được phong Hiển Cung đại phu, Đông Các học sĩ. Năm 1729 được bổ chức Đốc đồng Thái Nguyên. Một năm sau đó được phong Hoằng Tín đại phu, Thái Thường tự khanh. Xem thế đủ biết, trên con đường danh vọng Bùi Sĩ Tiêm đã thênh thang thẳng tiến. Mọi ân sủng của triều đình đến với ông đều buồm xuôi gió thuận, không có gì đáng phải tủi hờn, oán giận. Nhưng chí hướng, hoài bão lớn lao của ông là muốn dân yên, nước thịnh. Sau hơn mười năm hăm hở dốc tâm lo tròn phận sự, đi nhiều thấy rộng, những cảnh nhiễu nhương trong triều ngoài trấn luôn làm ông canh cánh âu lo.
Khi Bùi Sĩ Tiêm dấn thân vào chốn quan trường thì xã hội phong kiến Việt Nam đang trên đà suy nhược, mục ruỗng. Triều đình Lê - Trịnh ươn hèn. Chế độ chính trị nhiễu nhương. Thuế khóa hà khắc, quan tham, lại nhũng, lòng dân ly tán. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổi lên như ong. Năm 1731, lợi dụng nhà Chúa xuống chỉ dụ cho quần thần tâu bày những kiến giải của mình về thế sự, Bùi Sĩ Tiêm đã dâng tờ khải mười điều trình bày cặn kẽ, thấu đáo những việc nên làm để yên nước, yên dân. Là người cương trực, dám nói thẳng hiện trạng nên tờ khải của ông đã làm Trịnh Giang phật ý, lại do một số quần thần xúc xiểm nên đã dẫn tới chung cục bi thảm, Bùi Sĩ Tiêm bị bãi chức đuổi về quê. Có lẽ, trong số những khải, tấu thời Lê Trung hưng đòi cải cách xã hội thì “khải thập điều” do Bùi Sĩ Tiêm soạn với hơn một vạn từ là tờ khải đã kiến giải toàn diện, thấu đáo nhất về thực trạng xã hội bấy giờ. Nội dung bài khải gồm mười vấn đề chính sau:
1. Phê phán Trịnh Giang sai trái phế truất vua Duy Đường (Lê Dụ Tôn), đưa Duy Phường (Lê Vĩnh Khánh) lên ngôi để thỏa mãn ý riêng tây.
2. Phê phán tệ hối lộ, luồn lọt để được thăng quan tiến chức. Dùng tiền để tiến thân. Dùng tiền để chạy tội. Luật pháp không nghiêm... Bùi Sĩ Tiêm đưa ra kiến nghị trừng trị kẻ ăn hối lộ và người đưa hối lộ, chấm dứt việc luồn lọt, dựa dẫm, cầu cạnh để thăng quan tiến chức. Nhiều kiến giải của ông đến nay vẫn mang tính thời sự, có những điểm rất gần với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng ta.
3. Phê phán tình trạng bao chiếm ruộng đất, phụ thu lạm bổ, gian lận thuế.
4. Phê phán chính sách xây dựng quân đội: Vì tệ tham nhũng, vì không quan tâm đến đời sống binh lính, quân đông mà không mạnh, cùng những kiến giải về việc giữ vững kỷ luật quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh.
5. Bộ máy quan lại quá đông, đơn vị hành chính cấp phủ, huyện, xã không hợp lý, dân ít mà quan đông không khỏi sinh ra tham nhũng. Ở điều này, Bùi Sĩ Tiêm đã nêu cụ thể cách sắp xếp lại đơn vị hành chính từng trấn, từng phủ huyện và cách tổ chức bộ máy nhằm giảm bớt số quan lại.
6. Nha lại nhũng lạm, tham lam không kể xiết, “trong triều, ngoài quận bọn nha lại theo nhau làm bậy, người dân khổ nhục biết bao..., loại người chạy chọt, cầu cạnh rất nhiều, chẳng đỗ đạt cũng được bổ, chẳng theo thứ tự cũng được thăng”, cùng những kiến giải về việc ngăn chặn bổ quan bừa bãi, “giao cho bộ Lại kê khai rõ những kẻ nha lại nào không có khoa mục đều phải sa thải, nếu được bổ nhiệm quan chức rồi cũng bãi về để triệt hết tệ nạn bôn xu, cầu cạnh”.
7. Hình thức thi cử khuôn sáo, “có kẻ hơi thông về bài hỏi mười điều sách lược mà đã được đỗ cao, nếu hỏi đến chính sách cứu đời không có nửa chữ. Có kẻ hơi thạo về mục sách học đề cương mà mưu lược giúp nước không được một lời đáng khen”... cùng những kiến giải về thực học, đề thi không nên tầm chương trích cú để tuyển dụng người tài.
8. Việc xử án không nghiêm minh, cậy quyền thế ăn tiền đút lót, bắt bớ, hãm hại người vô tội. Việc kiện khống, kiện vượt cấp, kiện xằng nhan nhản... cùng những kiến nghị về việc đề ra quy chế khiếu kiện, lề lối làm việc của người làm án, chính sách nuôi dưỡng phạm nhân...
9. Cơ quan liêm phóng (thanh tra) không làm tròn chức trách để cho bọn quan lại làm càn, tiếng oán thán của dân chưa tới bề trên... cùng những kiến giải về việc thanh tra các cấp.
10. Người nước ngoài tự do khai khoáng, in tiền giả, hành hung, cướp bóc dân bản xứ. Quan lại vì hám lợi mà làm ngơ... cùng những kiến giải về việc quản lý người nước ngoài.
Những kiến giải trong mười điều khải là vô cùng thấu đáo nhưng vì thời cuộc thiếu vua sáng tôi hiền nên ông phải chịu chấp nhận bãi chức. Về quê được ít lâu Bùi Sĩ Tiêm mở trường dạy học và đột ngột qua đời vào tuổi 44. Năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743), triều đình ra chỉ dụ minh oan và truy phong tước hầu cho Bùi Sĩ Tiêm. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú đã xếp Bùi Sĩ Tiêm trong danh sách các bề tôi tiết nghĩa. Đến nay, ở thị trấn Đông Hưng (huyện Đông Hưng), ở thành phố Thái Bình và một số thành phố khác trong nước đã có đường phố mang tên Bùi Sĩ Tiêm.
Nguồn tin: https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/39/161797/khai-thap-dieu-cua-ong-nghe-kinh-lu
Nguyễn Thanh