Đào Trinh Nhất: Người Việt Nam đầu tiên có bằng cử nhân báo chí
Ngày: 29/06/2023
Đào Trinh Nhất (1900 - 1951), quê làng Thượng Phán, xã Quỳnh Hoàng (Quỳnh Phụ), là con trai của nhà yêu nước, nhà báo kiêm học giả Đình nguyên Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ (1861 - 1908). Nếu như lịch sử báo chí của Việt Nam ghi nhận Đào Nguyên Phổ thuộc thế hệ khơi nguồn dẫn mạch, xây móng đắp nền thì con trai ông là Đào Trinh Nhất lại trở thành thế hệ nhà báo chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên có bằng cử nhân báo chí, đồng thời cũng là người ra số báo xuân đầu tiên trong lịch sử báo chí nước nhà.

Đào Trinh Nhất (1900 - 1951), quê làng Thượng Phán, xã Quỳnh Hoàng (Quỳnh Phụ), là con trai của nhà yêu nước, nhà báo kiêm học giả Đình nguyên Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ (1861 - 1908). Nếu như lịch sử báo chí của Việt Nam ghi nhận Đào Nguyên Phổ thuộc thế hệ khơi nguồn dẫn mạch, xây móng đắp nền thì con trai ông là Đào Trinh Nhất lại trở thành thế hệ nhà báo chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên có bằng cử nhân báo chí, đồng thời cũng là người ra số báo xuân đầu tiên trong lịch sử báo chí nước nhà.

Đào Trinh Nhất chịu ảnh hưởng sâu sắc về cuộc đời, sự nghiệp và nhân cách, khí tiết của người cha. Đào Nguyên Phổ đã từ một nhà Nho học sáng láng khoa danh trở thành một danh sĩ đa tài, nhà chí sĩ kiên trung, nhà báo tiên phong, nhà giáo dục mang tư tưởng canh tân. Riêng về lĩnh vực báo chí, Đào Nguyên Phổ từng được báo giới tôn vinh là một trong những người Việt Nam đầu tiên khai sáng ra nghề báo ở Việt Nam với các sự kiện sáng lập và làm chủ bút các báo lớn như: Đại Nam đồng văn nhật báo, Đại Việt tân báo, Đăng cổ tùng báo... vốn là những tờ báo đầu tiên xuất hiện ở Hà Nội vào những năm 1903 - 1905. Năm 1907, Đào Nguyên Phổ tham gia sáng lập trường Đông Kinh nghĩa thục, đã viết nhiều cuốn sách giáo khoa với tư tưởng tiến bộ và trực tiếp giảng dạy, được sử sách ghi nhận là một sáng lập viên hàng đầu và đã có những đóng góp quan trọng vào các hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục. Cuối năm 1907, Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, các yếu nhân của phong trào bị truy lùng gắt gao. Đào Nguyên Phổ lẩn tránh trong nhà một người bạn ở phố Hàng Than (Hà Nội). Mấy tháng sau đó, ông đã tuẫn tiết vào ngày 22/6/1908.

Năm 1907, Đào Trinh Nhất mới 7 tuổi đã được cha đưa vào thụ giáo tại trường Đông Kinh nghĩa thục. Khi trường bị đóng cửa, được gia đình cho theo học chữ Hán 10 năm tại Hà Đông. Đến năm 18 tuổi được vào học tại Quốc Tử Giám ở Huế. Nối chí cha, chàng thanh niên họ Đào này không mơ tưởng đến chuyện học để làm quan mà đã sớm dấn thân vào nghề báo, nghiệp văn.

Năm 20 tuổi, Đào Trinh Nhất nhận lời làm cộng tác viên, chuyên viết xã luận cho tờ Thực nghiệp dân báo; hai năm sau nhận làm biên tập viên tờ Hữu Thanh, vốn khi ra đời tờ báo này do Tản Đà làm chủ bút, liền sau đó được mời phụ trách chính Đông Pháp thời báo (phụ trương tiếng Việt của tờ France - Indochine).

Một số tác phẩm báo chí viết theo chuyên đề của Đào Trinh Nhất đã xuất bản thành sách.

Một bước ngoặt lớn trong cuộc đời giúp Đào Trinh Nhất trọn đời theo nghề báo là đầu năm 1926, ông được tuyển chọn sang theo học tại Khoa Báo chí, Trường Đại học Sorbonne (Pháp) và trở thành người Việt Nam đầu tiên có bằng cử nhân báo chí. Những năm học tại trường, ông tham gia viết báo Việt Nam hồn.

Khi trở về nước, Đào Trinh Nhất đã trở thành một nhà báo có danh tiếng, được nhiều tờ báo trong nước mời cộng tác. Thời gian đầu, ông viết nhiều cho báo Công luận và báo Thần chung. Năm 1929, ông được mời làm chủ bút tờ Phụ nữ tân văn; sang năm sau kiêm luôn chủ bút tờ Đuốc nhà Nam và mở ra kỷ nguyên mới về báo xuân từ năm 1934. Năm 1936, Đào Trinh Nhất sáng lập tờ báo Mai. Do có nhiều bài viết ca ngợi các chí sĩ yêu nước như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, ca ngợi Đông Kinh nghĩa thục và các tấm gương yêu nước nên vào giữa năm 1939, nhà cầm quyền đã ra lệnh khẩn cấp trục xuất Đào Trinh Nhất khỏi Nam Kỳ và bị giải về Hà Nội.

Trong khoảng 10 năm ở Hà Nội, ngoài việc làm chủ bút cho các báo: Trung Bắc chủ nhật, Ngày mới, Cải tạo… Đào Trinh Nhất còn có nhiều bài viết sắc sảo cho nhiều tờ báo đương thời như Nước Nam, Việt thanh, Tri tân, Tiểu thuyết thứ bảy…Năm 1949, ông trở lại Sài Gòn, được mời làm tham vụ báo chí trong nội các của chính quyền Nguyễn Phan Long và tiếp tục viết nhiều cho các báo Ánh sáng, Sài Gòn mới, Dân thanh… rồi đột ngột qua đời vào ngày 23/2/1951 trong khi đang dịch dở dang cuốn Liêu trai chí dị. Ngày ông qua đời, đồng loạt báo chí trong Nam ngoài Bắc đều có những bài viết dành những lời tốt đẹp nhất để tôn vinh “một lão thành trong làng báo”, “một anh tài”, “một kiện tướng trong văn giới, báo giới”, “một ký giả lão thành”, “một nhà báo kiêm sử gia có tiếng”, “học vấn uyên thâm và thiên tài về nghề báo”, “một danh tướng trong làng báo Việt Nam”...

Trải 30 năm cầm bút, Đào Trinh Nhất đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ gồm nhiều thể loại. Từ một nhà báo lẫy lừng danh tiếng, Đào Trinh Nhất đã trở thành một học giả kiệt xuất là bởi đa phần các tác phẩm sáng tác, khảo cứu và dịch thuật của ông đều được in trên các tờ báo có danh tiếng với số lượng người đọc đông đảo thời bấy giờ và được tập hợp in thành hơn 30 đầu sách với các bút danh Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào...

So với người cha của mình thì sự nghiệp trước tác trong nghề báo, nghiệp văn, dịch thuật của Đào Trinh Nhất có phần đồ sộ hơn. Sức viết, sức làm việc của ông thật khôn lường. So với những nhà báo có danh tiếng đương thời thì Đào Trinh Nhất có thế mạnh hơn hẳn. Chẳng hạn như với Tản Đà, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi, Ngô Tất Tố đã đến với công việc viết báo, chủ yếu vẫn chỉ bằng văn hóa Hán học. Ngược lại, không ít người làm báo khác lại chỉ có Tây học. Trong khi ở Đào Trinh Nhất là vừa Hán học vừa Tây học. Về Hán học, ông được học ở trường Đông Kinh nghĩa thục và đã có 10 năm “nấu sử sôi kinh” ở Hà Đông, đủ vốn liếng dự kỳ thi Hương cuối cùng năm 1915. Về Tây học, ông là học sinh trường Quốc tử giám ở Huế mà chương trình học vừa có Hán học vừa có Tây học. Ông lại có những năm đi du học ở Pháp về chuyên ngành báo chí. Từ kho tàng tri thức đông tây kim cổ và nghiệp vụ báo chí được đào tạo cơ bản, Đào Trinh Nhất đã hành nghề báo khác lạ với nhiều người làm báo đương thời. Đó là việc ông ít khi viết từng bài lẻ, mà viết theo chủ điểm lớn, theo hệ thống, chuyên đề... để rồi xâu chuỗi lại là thành một công trình chuyên khảo. Từ kỹ năng làm báo mang phong cách riêng đó, Đào Trinh Nhất không chỉ sáng danh ở hàng chục tờ báo lớn đương thời mà còn lưu danh, “đắt khách” ở hơn 30 công trình chuyên khảo về lịch sử.

Tiếp tục chí hướng và tâm nguyện của người cha, Đào Trinh Nhất đã dành trọn cuộc đời để dốc chí, dốc tâm, dốc sức viết báo, viết văn, viết sử và dịch thuật cốt là nhằm thức tỉnh tinh thần dân tộc, cổ súy lòng yêu nước. Dưới sự kiểm soát gắt gao của nhà cầm quyền đương thời, nhiều tác phẩm của ông đã phải lựa cách viết khôn khéo để tùy theo từng thời điểm có thể công bố được. Những di sản về tư tưởng và học thuật tiến bộ của Đào Trinh Nhất không chỉ mang giá trị vô cùng quý giá cho làng báo, làng văn Việt Nam mà còn là những di sản trường tồn cùng đất nước.

Nguồn tin: https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/39/177245/dao-trinh-nhat-nguoi-viet-nam-dau-tien-co-bang-cu-nhan-bao-chi

Nguyễn Thanh (Vũ Quý, Kiến Xương)